Saturday, December 12, 2015

Tự Hào Là Người Việt Nam Trên Quê Hương Thứ Hai
 Cung Thị Lan
Những lúc rảnh rỗi tôi thường tâm sự với đồng nghiệp ở sở Xã Hội, nơi tôi làm việc, rằng:  “Tôi chỉ muốn sống ở Việt Nam và  được chôn sau khi chết tại quê hương tôi; thế nhưng, cuộc sống khắc nghiệt sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975  đã  khiến tôi trốn ra khỏi nước và đến Mỹ theo diện tị nạn.”  Các bạn đồng nghiệp, bất kể khuôn mặt ưu tư của tôi, reo lên một cách hồn nhiên rằng:  “Ồ! Nhờ như thế mà chúng tôi may mắn có bạn làm chung ở đây!” Bà cán sự của chương trình sức khỏe nói: “Tôi biết chiến tranh Việt Nam năm 1975 và lý do gì người Việt các bạn phải rời quê hương nên tôi hiểu cảm giác của bạn lắm!  Nhưng bạn ở đây đã lâu, đã là thành viên của nước Mỹ thì hãy vui vẻ hòa nhập trong cái tô sà lách trộn của chúng tôi đi! Đừng buồn nữa!”  Cô cán sự của chương trình giữ trẻ tiếp lời: “Trước đây tôi  đã từng làm việc với  vài  người Việt ở những chỗ làm khác nên  tôi  cũng biết tính tình của người Việt. Các bạn làm việc rất siêng năng và đáng tin cậy!” Người khác gật gù: “Tôi cũng nghĩ người Việt góp nhiều công sức cho đất nước chúng tôi. Thêm vào đó, văn hóa đặc biệt của các bạn góp phần đáng kể cho nền văn hóa đa dạng của Mỹ! Người Việt các bạn làm việc rất siêng năng và cần cù. Các bạn không nề hà việc làm tay chân hay trí óc. Chính vì cần cù và chịu khó mà các bạn đã thành công và thăng tiến trong nghề nghiệp!” Người khác nói thêm:  “Còn tôi thì rất thích ăn các món ăn Việt. Tôi thích món Phở và chả giò nhất. Cuối tuần, tôi thường đưa gia đình tôi đến  các tiệm ăn Việt Nam ở thương xá Eden Virginia.”  Bà sếp của chương trình giữ trẻ khẳng định: “Tôi cũng đã được thưởng thức vài món ăn Việt và còn thấy chiếc áo dài tuyệt đẹp của người Việt nữa!  Phải nói là thức ăn, y phục và phong tục tập quán của các bạn rất đặc biệt. Đối với tôi, tìm hiểu về những điều đó rất thú vị; cho nên, có thể nói là chúng tôi may mắn khi có các bạn ở đây.”
Những lời nói chân thành của bạn đồng nghiệp đã làm tôi ngạc nhiên và cảm động nhưng tôi chỉ đáp lại bằng hai chữ cảm ơn một cách đơn giản. Tôi không làm sao có đủ thì giờ để giải bày tất cả suy tư hòa lẫn cảm kích đang đầy ắp trong tâm trí của tôi về sự thay đổi của bản thân mình, gia đình mình và cả cộng đồng người Việt kể từ khi chúng tôi lần lượt bỏ quê cha đất tổ ra đi cho đến nay.  Những điều tôi đang trang trải trên những giòng chữ này.
 Những ngày đầu tiên tị nạn trên đất Mỹ, người Việt tị nạn chúng tôi  thường đón nhận những cặp mắt nghi ngại và xa lạ, khác hẳn với những ánh mắt tin tưởng chân thành và tuyệt đối của ngày hôm nay. Từ ngày đó đến nay đã bốn mươi năm.  Một thời gian dài đủ cho chúng tôi chứng minh mình là ai với người bản xứ và các sắc dân khác. Tuy nhiên, sự thành công của người Việt tị nạn chúng tôi không những chỉ đơn thuần về phong cách làm việc uy tín, Anh Văn tiến bộ, bằng cấp cao, thu nhập cao hay nghề nghiệp vững chải trong việc hội nhập vào xã hội Mỹ mà chúng tôi còn thành công đáng kể trong việc duy trì và phát triển văn hóa của dân tộc mình.  
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, người Việt chúng tôi đến Mỹ với tư cách tị nạn bằng nhiều cách khác nhau: Người đi trong những chuyến di tản ngay ngày miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng Sản, người vượt biên bằng đường thuỷ, người vượt biên bằng đường bộ, người đi chính thức diện con lai theo chương trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure Program), hay tù nhân chính trị theo diện HO (Humanitarian Organization). Dù đến xứ tự do bằng hình thức nào chúng tôi đều có chung một điểm là tinh thần suy sụp. Trong khi buồn khổ vì sống xa nơi chôn nhau cắt rốn, khủng hoảng tinh thần vì mất mát người thân trên biển, trầm cảm vì bị hãm hiếp bởi hải tặc hay đau khổ   bởi những chứng bệnh ngặt nghèo kết quả từ những năm trong các trại tù, người Việt tị nạn chúng tôi còn khốn khổ bởi  ngôn ngữ bất đồng, phương tiện đi lại khó khăn, phong tục tập quán khác biệt và kỳ thị của một số người bản xứ.
Tuy nhiên,  bất kể xuất thân từ những hoàn cảnh khó khăn  như thế nào,  và bỡ ngỡ với môi trường  mới ra sao,  người  Việt tị nạn chúng tôi  luôn cố gắng  đối phó mọi  thử thách với quyết tâm cao độ. Chúng tôi không quản ngại đường sá xa xôi, phương tiện giao thông hạn chế để đến chỗ làm đúng giờ. Chúng tôi không nề hà những việc làm bằng tay chân như bồi bàn, bồi phòng, rửa chén, giữ trẻ, quét dọn, hay vệ sinh để không còn phải phụ thuộc vào sự trợ cấp của xã hội. Chúng tôi không e ngại chuyện làm hai, ba công việc khác nhau để sớm có chỗ ở ổn định. Và chúng tôi không ngần ngại chuyện nhín thời gian hiếm hoi học thêm Anh ngữ để có thể kiếm việc làm tốt hơn.   
Tôi đã sống trong khu Park Road của vùng Tây Bắc Hoa Thịnh Đốn từ năm 1990  đến năm 1997 nên biết rất rõ người Việt tị nạn trong vùng này. Đa số người Việt tị nạn trong các chung cư ở đường Park Road là con lai. Vì hoàn cảnh vô gia cư và thất học khi sống lây lất ở Việt Nam, đa số con lai không biết ngày sinh nên  khi làm giấy tờ đi  Mỹ diện ODP họ đều có chung ngày sinh là 31 tháng 12. Có một số con lai không biết chữ nên phải đánh chéo dấu thập khi ký tên. Thế mà chỉ sau một năm ở Mỹ, họ có thể ký tên thuần thạo, viết chữ dễ dàng và  trao đổi lưu loát  với  người Mỹ. Vài năm sau đó,  họ lần lượt thi lấy bằng luật, bằng lái xe, bằng làm móng tay, bằng làm tóc và cả bằng  Quốc Tịch Mỹ.  Không ai có thể tin rằng những người con lai Mỹ chỉ biết chăn trâu, làm ruộng, đánh giầy, bán vé số, làm thuê làm mướn và thậm chí ăn xin ở Việt Nam nay trở thành những công dân Mỹ biết lái xe đi làm, tự mưu sinh bằng những nghề khác nhau như móng tay, tóc, thợ máy, mộc, hay nhà hàng. Với sức cố gắng vượt bậc cùng với  sự giúp đỡ  tận tâm của các tổ chức bất vụ lợi trong vùng như Uỷ  Ban Cứu Người Vượt Biển, Cộng Đồng Việt Nam vùng Hoa Thịnh Đốn  và Hội Ái Hữu Người Việt Maryland, con lai đã sát cánh cùng những người Việt tị nạn có chút vốn Anh văn và bằng cấp từ trong nước không ngừng học thêm Anh Văn và nghề nghiệp  trong các nhà thờ, hội đoàn, trường dạy nghề , trường trung cấp và  trường đại học hầu giảm bớt gánh nặng của xã hội và nâng  cao mức thu nhập  cho đời sống của gia đình.  Có rất nhiều tư nhân thành công trong kinh doanh siêu thị, tiệm ăn, nhà hàng, tiệm tóc, tiệm nail. Những cơ sở thương mại này đã tạo nên một khối công ăn việc làm đáng kể cho những người Việt tị nạn mới đến, giải quyết được sự phụ thuộc trợ cấp của xã hội để tạo dựng nên cuộc sống độc lập bằng sức lao động của mình. Sự thành công này đã khiến cho các trung tâm thương mại người Việt phát triển mạnh hòa theo nhịp phát triển của các cộng đồng người Việt tại Mỹ. Đã có nhiều khu thương mại lớn, nhỏ của người Việt ở California, Houston Texas và các nơi khác như New York, Florida... Riêng ở vùng Hoa Thịnh Đốn, khu thương mại Eden là khu tập trung mua bán và có nhiều sinh hoạt đáng kể của Cộng Đồng người Việt trong vùng. Hầu hết các tiệm ăn Việt khu thương mại Eden không những phục vụ cho người Việt mà thu hút cả người Mỹ và các sắc dân khác.
Hầu hết người Việt tị nạn chúng tôi không những chú tâm đến vấn đề thu nhập của gia đình mà luôn coi trọng việc dạy dỗ con cái trở thành người công dân hữu ích trên quê hương thứ hai. Chúng tôi, không ai nói ai, cùng đồng lòng tôn trọng và tuân theo luật pháp của xã hội Mỹ từ giao thông, học đường, tài chính, ngân hàng đến những yêu cầu khác của xã hội. Chúng tôi luôn thanh toán những khoản nợ đúng qui định, đi làm đúng giờ, bảo đảm chất lượng công việc của mình ở chỗ làm và nhất là bảo đảm sự tiếp thu kiến thức của con cái mình ở trường học.  Các gia đình Việt Nam chúng tôi thường đặt nặng vấn đề học vấn và luôn khuyến khích con cái học hành chăm chỉ để thành công trong trường.  Ngoài ra, chúng tôi còn tạo điều kiện cho con cái mình tham gia những sinh hoạt lành mạnh đồng thời giúp đỡ chúng tham gia những công tác thiện nguyện để đáp ứng yêu cầu của học sinh trước khi vào các trường Đại Học. Dựa vào sự trợ giúp của các chương trình giáo dục miễn phí và các hội đoàn từ thiện, con cái chúng tôi ghi danh vào các lớp học thêm để nâng cao điểm học tập trong nhà trường. Các lớp học tiếng Việt giúp cho các em có điều kiện nói, đọc và viết tiếng Việt thường xuyên đồng thời  giúp các em biết thêm  lịch sử Việt Nam.  Những sinh hoạt lành mạnh như Phong Trào Hướng Đạo, Thiếu niên Thánh Thể của các nhà thờ hay Gia đình Phật Tử của các chùa  đã giúp cho các em thể hiện lòng tôn kính đối với tín ngưỡng của mình và giữ gìn thuần phong mỹ tục của  dân tộc.  Ngoài ra, các hội đoàn của cộng đồng người Việt chúng tôi thường xuyên tổ chức những ngày Lễ truyền thống như: Giỗ tổ Hùng Vương, Lễ Hai Bà Trưng, Tết Trung Thu, Tết Nguyên Đán. Những ngày Lễ hội này tạo cho đồng hương có dịp gặp gỡ họp mặt đồng thời giúp cho giới trẻ Việt có cơ hội tìm hiểu cội nguồn và phong tục tập quán của người Việt Nam.  Đáng kể nhất là hội Kết Đoàn do nhóm trẻ trong vùng Hoa Thịnh Đốn đã góp sức cùng các hội đoàn khác  đã thành lập từ lâu trong cộng đồng tổ chức các ngày Lễ truyền thống của người Việt và thực hiện các công tác xã hội rất ý nghĩa như thăm viếng các viện Dưỡng Lão, phát thức  ăn cho người Vô Gia Cư hay gây quỹ từ thiện nhằm giúp đỡ cho những người thiệt thòi hay những nạn nhân bão lụt Việt Nam, Nhật Bản, Thái Lan và Phillippines.  Đáng nhớ nhất là toàn thể  cộng đồng người Việt vùng Hoa Thịnh Đốn cùng các cộng đồng người Việt khác ở khắp nơi trên đất Mỹ và thế giới đã phát động rầm rộ phong trào gây quỹ  giúp đỡ người dân Philippines  trong trận bão dữ dội Haiyan đầu tháng 11 năm 2013. Việc làm hết sức ý nghĩa này bày tỏ phần nào sự đền ơn đáp nghĩa của người Việt tị nạn đối với nước Philippines, quốc gia cưu mang và giúp đỡ thuyền nhân Việt trong hải trình tìm bến tự do. Giới trẻ Mỹ gốc Việt trong thế hệ hai, ba luôn đồng nhịp với thế hệ cha anh chúng tôi, tham gia đều đặn với những hoạt động của Cộng Đồng.  Các em  không những thu thập văn hóa “ Xin chào”,  “ Cảm ơn”, “xin lỗi” , “ Con có  thể … không?” của văn hóa Mỹ và cả “Dạ”, “Thưa”, “Đi thưa về trình”, “Kính trên nhường dưới”, “Tiên học lễ  hậu học văn”…  của văn hóa Việt Nam. 

 Song song với chuyện trau dồi phẩm chất Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí và Tín,  cộng đồng người Việt  chúng tôi còn khuyến khích nhau  giữ gìn và  tôn vinh chiếc áo dài truyền thống của dân tộc. Trước đây, trong những năm 1976 đến 1980, những chiếc áo dài truyền thống Việt Nam ít thấy  xuất hiện trên đất Mỹ thì ngày nay những chiếc áo dài đủ màu, đủ sắc, đủ kiểu  thường  tha thướt phô bày  trong các nhà thờ, chùa chiền và các hội lớn trên xứ Cờ Hoa này.  Các thí sinh trong các cuộc thi hoa hậu Áo Dài Việt Nam hay Hoa Hậu Việt Nam thường phải tham gia các cuộc trình diễn áo dài dân tộc. Trong những ngày hội Tết Âm Lịch tại Maryland, ban tổ chức thường miễn phí cho những ai tham gia với chiếc áo dài Việt Nam. Mặc dù trời rất lạnh, vẫn có rất nhiều em nữ vui vẻ tham gia. Các em nói là không phải vì miễn phí mà vì các em cảm thấy tự hào khi mặc chiếc áo dài Việt Nam.  
Đồng nghiệp của tôi đã nhận định khá chính xác rằng người Việt chúng tôi đã mang sắc thái mới, làm giàu cho sự đa dạng của nền văn hóa Mỹ. Tuy nhiên, có lẽ họ không bao giờ biết rõ là chúng tôì đã làm điều đó từ con số không. Bạn bè của tôi, những người Việt đến Mỹ theo làn sóng tị nạn năm 1975, đã tâm sự với tôi rằng: “Tuy những người vượt biển bằng thuyền như bạn nguy hiểm và gian nan hơn những người chạy loạn trong đợt di tản  nhưng những người đi sau  được may mắn  là kế thừa được những gì người đi trước ky cóp, tích trữ  cho. Nhờ như vậy mà bây giờ các bạn được hưởng đầy đủ các món ăn  Việt Nam  ở Mỹ chẳng khác gì ở Việt Nam. Chứ ngày đầu tiên tụi này đến Mỹ khổ không sao tả hết được! Đã nhớ nhà đến đau lòng mà còn nhớ những món ăn Việt Nam khủng khiếp. Thèm chút nước mắm cũng không có chớ nói chi đến các món chả giò, phở, bún bò, bún riêu. Không dễ dàng tìm thấy các loại rau húng, rau quế, rau răm, ngổ, bạc hà, bắp chuối… như bây giờ đâu!”  Lời tâm sự này đã  khiến tôi  hình dung cảnh  những người Việt Tị Nạn đầu tiên săn lùng trên đất Mỹ  từng  loại gia vị quý hiếm, góp nhặt từng loại rau nhiệt đới để chế biến các món ăn na ná với những món ăn thường có ở Việt Nam. Ngày nay, những món ăn chế biến kia đã trở thành những  món ăn thuần tuý đậm đà. Mùi vị không khác mùi vị của các món ăn ở Việt Nam. Bởi hầu hết các mảnh vườn của người Việt chúng tôi trên đất Mỹ đều có đủ các loại rau từng có ở quê nhà như: húng quế, xả, ớt, ngò, rau răm… nên chúng tôi đã dễ dàng thực hiện được điều này. Những khu vườn của người Việt ở miền nắng ấm  như California, Texas, Florida còn có nhiều  loại trái cây thường có ở Việt Nam  như nhãn,  mãng cầu, vải, chôm chôm, bưởi, xoài, dưa hấu, chùm ruột, chuối,  khế, ổi, chanh , đu đủ… Những loại trái cây này đã giúp cho những bàn thờ tổ tiên của người Việt trong những ngày Tết Âm Lịch trở nên đẹp mắt và đầy đủ cùng những chiếc bánh chưng, bánh Tét truyền thống.  Có thể nói là chúng tôi đã đem theo quê hương Việt Nam đến tận Hoa Kỳ. Với ngôn ngữ Việt, chiếc áo dài truyền thống, và các món ăn Việt, chúng tôi đã duy trì bản sắc dân tộc Việt trên quê hương thứ hai.
Nếu trong những năm đầu tiên, người Việt tị nạn chúng tôi  thường bị người bản xứ ái ngại là gánh nặng thì ngày nay hầu hết chúng tôi được tin tưởng là  những công dân  Mỹ gốc Việt góp phần đắc lực cho đất nước.  Đa số con của người Việt tị nạn và con của con lai đều thành công trong các trường đại học và đều có việc làm vững chắc. Lớp trẻ này trở thành thế hệ trẻ Mỹ gốc Việt vững mạnh kế thừa và phát triển đức tính siêng năng cần mẫn của cha mẹ.
 Nhiều người Mỹ gốc Việt hiện nay có mặt hầu hết trong các cơ quan chính phủ Liên Bang cũng như tiểu bang.  Đã có nhiều người thành công trong các ngành y khoa, dược khoa, luật khoa, giáo dục, xã hội, không gian, chính trị và cả quân đội. Chúng tôi có bác sĩ Nguyễn Xuân Nam đạt nhiều giải thưởng trong ngành y, giáo sư bác sĩ  Đặng Văn Chi, phó trưởng  khoa Y của trường  Johns Hopkins, là bác sĩ hàng đầu về  ung thư  tại Mỹ. Nhiều giáo sư đại học thành công  như giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng của đại học George Mason, giáo sư Cao Hữu Trí của đại học California  ở  San José, Giáo sư Nguyễn Văn Xương ở đại học California ở San Diego. Chúng tôi có tiến sĩ Nguyễn Tuệ  giữ kỷ lục của  viện Công nghệ Massachusetts, kỹ sư Đinh Trường Hân giám đốc Nghiên Cứu và Phát Triển các chương trình về xe của Bưu Điện Hoa Kỳ. Chúng tôi còn có giáo sư Nguyễn Xuân Vinh Được Giải Thưởng Của Hội Du Hành Vũ Trụ Hoa Kỳ,  dân biểu Cao Quang Ánh là người Việt đầu tiên được bầu vào Hạ Viện Mỹ, nữ khoa học gia Dương Nguyệt Ánh thành công trong việc chế bom Áp Nhiệt cho chiến trường Afghanistan đạt huy chương phục vụ Quốc gia về an ninh, tướng Lương  Xuân Việt là tướng Mỹ gốc Việt đầu tiên trong quân lực Hoa Kỳ  phụ trách hành quân tác chiến, nữ đại tá Elizabeth Phạm, nữ trung tá lục quân  Phạm Phan Lang, nữ trung tá bác sĩ không quân Mylene Trần Huỳnh,... và còn rất nhiều người nữa. Tôi tin chắc là nếu mỗi người Mỹ gốc Việt viết về cuộc sống họ ở Mỹ, sẽ có vô số câu chuyện thành công lý thú đáng để cho các thế hệ con cái mai sau học hỏi và tự  hào.
Sự thành công vượt bậc của chúng tôi, người Việt tị nạn trước đây và người Mỹ gốcViệt hiện nay, không phải chỉ do tính siêng năng cần cù chịu khó của chúng tôi mà còn do tấm lòng nhân ái và vòng tay rộng mở của nước Mỹ. Ngay từ những ngày đầu tiên, chúng tôi được chính phủ tận tâm giúp đỡ từ tài chính, y tế, thực phẩm, nhà trẻ, học hành, giáo dục khuyết tật  đến cả giao thông vận chuyển.  Cùng với những trợ cấp xã hội, sự Tự Do và Dân Chủ của nước Mỹ đã tạo cho chúng tôi cơ hội phát triển khả năng và tài lực của mình. Chúng tôi có thể ghi danh học ở bất cứ lứa tuổi nào, bất cứ môn học gì và bất cứ trường học nào, giờ học nào phù hợp với sở thích, khả năng và thời khóa biểu của mình.  Bản thân tôi khi đến Mỹ là người đàn bà có chồng con. Với ba đứa con trai nhỏ, vừa làm vừa học không phải là chuyện dễ dàng nhưng tôi đã cố gắng dành thời gian để đến trường.  Kết quả là tôi lấy được bằng cử nhân, rồi bằng thạc sĩ và trở thành nhân viên của chính phủ Hoa Thịnh Đốn. Mặc dù, sự thành công của tôi chỉ là hạt cát trong sa mạc cống hiến và  thành công của vô số đồng hương trong cộng đồng người Việt tại Hải Ngoại nhưng tôi  rất hãnh diện vì mình đã đồng hành cùng đồng hương góp phần vào sự cố gắng chung của Cộng Đồng. Sự tận tụy của chúng tôi trong 40 năm đã tạo một uy tín khá lớn trong lòng những người bản xứ và bày tỏ phần nào  sự  đền ơn đáp nghĩa đối với xứ sở cưu mang mình. Lòng thương nhớ Việt Nam không bao giờ nguôi trong lòng tôi nhưng tôi chỉ còn biết cầu nguyện cho quê hương tôi sớm có Tự Do Dân Chủ. Tôi suy nghĩ rất nhiều về tình cảnh hai quê của mình và thường chạnh lòng với thân phận lưu vong trong giòng chảy ngày càng xa cội nguồn. Nhưng, tôi tự an ủi rằng số phận của mình gắn liền với quê hương thứ hai  nên tôi tiếp tục  cùng cộng đồng người Việt duy trì bản sắc của dân tộc trong “cái tô sà lách trộn của nước Mỹ”.
Cung Thị Lan 

Ngày 30 tháng 4 năm 2015

No comments:

Post a Comment