Hữu
Duyên
Cung Thị
Lan
“…Vài
ngày sau, các lớp của trường Nữ Trung Học Huyền Trân bị dời sang trường Nữ Tiểu
Học Nha Trang…Dần dà lớp học của Hạ chỉ còn có chín người. Ngoài Hạ, không còn
một ai trong nhóm Ngũ Cô Nương đến lớp. Hạ càng hoang mang và lo lắng hơn khi
thấy cô giáo chủ nhiệm kiêm dạy Việt Văn của mình cũng chào tạm biệt để vào Sài
Gòn…Hạ cảm thấy như mình bị bỏ rơi…”
Tôi
vắn tắt tâm trạng của mình trong tác phẩm Nha Trang Dấu Chân Kỷ Niệm như thế nhưng
thực tế lúc ấy tôi hoàn toàn tuyệt vọng khi nghe cô giáo chủ nhiệm
Nguyễn Thị Ngọc Dung chào từ giã những đứa học sinh còn lại trong lớp 12C của chúng
tôi trong buổi học cuối cùng trong một ngày của tháng ba năm 1975. Cô Ngọc Dung bấy
giờ rất là cô giáo trẻ nhất trường với thân hình nhỏ nhắn nhưng trong ý nghĩ của tôi, cô là chỗ
tựa vững chắc giúp cho tôi, một đứa nữ sinh mười chín tuổi, có chút sức mạnh
tinh thần trước những cuộc di tản không ngừng. Lúc ấy, tôi cảm tưởng như mình là một kẻ
đang bơi trong giòng nước cuồn cuộn kinh
hoàng, víu hụt một tấm ván mỏng manh. Tôi hoàn toàn mất cô sau
ngày từ giã ấy như từng mất các thầy cô và các bạn theo đoàn người
di tản vào Sài Gòn. Cùng với người ở lại
tôi lao theo những việc làm cực nhọc để
đối phó với hoàn cảnh mới, thường gọi một cách chua chát là “đổi đời sau ngày 30 tháng 4”. Sau ngày này, tôi đã xếp tất cả kỷ niệm trong thời áo trắng vào quá khứ để
rồi khi bất chợt nhớ đến, chúng chỉ còn là hình ảnh dễ thương của truyện cổ tích.
Năm
2004, Hội Ngộ hai trường Võ Tánh Nữ Trung Học Nha Trang tổ chức tại California,
tôi may mắn có số điện
thoại của cô Ngọc Dung . Từ đó tôi
thường xuyên tâm tình với cô qua điện thoại luôn. Tôi đã thật tình tâm sự với
cô rằng tôi không thích cái bục giảng
trong lớp học trong thời trước năm 1975 bởi nó đã làm cho tình thầy trò xa
cách. Dù lúc ấy, tôi rất quý mến phong cách đặc biệt của cô nhưng
tôi chẳng bao giờ có cơ hội gần gũi cô để
thố lộ với cô điều này. Chính vì điều này mà trong suốt thời gian học lớp 12C với
cô tôi nhát đến nỗi không dám nói chuyện
với cô một lời nào ngoài những lúc trả bài. Tôi nghe tiếng cười nhẹ của cô kèm những
lời thông cảm. Cô kể cho tôi nghe chuyện
cô dạy ở một trường ngoại ô Sài Gòn rồi giải thích sự khác biệt giữa mối quan hệ
của thầy trò trước và sau 1975. Sự khó khăn đã làm tình thầy trò gần gũi và gắn
bó nhiều hơn. Sau đó, thầy trò tôi đã tâm sự với nhau hàng giờ về cuộc sống khó khăn của mỗi người trong thời
gian xa cách. Tôi không hiểu những câu
chuyện của tôi có khơi lại những thời gian đẹp đẽ của lớp 12C trong ký ức của cô.
Còn tôi, hầu hết những câu chuyện kể của cô thường làm tôi xót xa đến nỗi thấm sâu vào trong giấc ngủ của tôi. Đến khi
tỉnh giấc, cảm giác đau xót vẫn còn ngập tràn trong tâm hồn tôi. Có lần tôi nói với
cô là: “Em tiếc tập thơ của thầy quá cô à! Cả một công trình thầy ghi chép
trong thời gian học tập cải tạo vậy mà mất tiêu! Phải chi cô còn giữ đến bây giờ
thì mình sẽ rõ biết bao nhiêu điều thú vị!” Cô chép miệng: “Cô tiếc lắm em ạ
nhưng lúc đó đi xe đò rất khó khăn, đưa cho họ chuyền vào trong, quên không hỏi
lấy lại thế là mất!” Giọng nói đầy xa vắng
của cô đã gợi lại hình ảnh trong giấc mơ của tôi. Tôi thấy cảnh cô chen chúc
trong chiếc xe đò gập ghềnh trên đường từ trại cải tạo về nhà. Chiếc xe đông đến
nỗi những người trong xe phải giúp cô chuyền chiếc giỏ của cô vào trong rồi nhét
vào một chỗ nào đó để cô có thể chen
chân vào trong xe. Khi cô xuống xe, chiếc giỏ có tập thơ mà chồng của cô gửi cô
đem về nhà trong ngày thăm nuôi không còn
để đến tay cô. Cô nói là cô quên nói người
ta đưa lại cho cô chứ không hề tỏ ý nghi ngờ hay đổ lỗi ai. Giọng nói êm nhẹ của cô
đã làm tôi cảm thấy thương xót khi
nghĩ đến hình ảnh nhỏ nhắn của cô
giáo chưa từng lăn lóc giữa chợ đời phải chen chúc trong chiếc xe đò đầy ắp người
để rồi chiếc giỏ chứa bao nhiêu tờ giấy ghi chép những bài thơ ky cóp trong tù học tập cải tạo trở thành những tập giấy cân ký của người vô
tình hay cố ý sở hữu chúng. Tôi hiểu cô giáo Việt Văn của mình là người yêu mến văn chương cho nên khi mất
tập thơ của người thân yêu cô ắt phải tiếc
nuối nhiều lắm. Thế nhưng cô đã không vì chuyện đã xảy ra mà tự dằn vặt hay làm
nặng lòng mình. Cô có cách sống thư thái
ung dung để hạn chế những căng thẳng không cần thiết. Nếu trong thời trường nữ
trung học Nha Trang, tôi học cô Ngọc
Dung về Văn Chương và Công Dân Giáo Dục thì hiện tại tôi học cô cách giữ cho tinh thần có sức khỏe tốt. Tôi đã may mắn được
gặp lại cô trong Hội Ngộ Võ Tánh Nữ Trung Học Nha Trang tại Houston Texas năm
2010, được cô cho đến nhà cô ở Canada và
được cùng du lịch cùng cô trong vườn hoa
đẹp The Butchart Gardens ở Victoria. Được gần gũi với cô giáo mà mình ngưỡng mộ
trong thời trung học, tôi rất hạnh phúc.
Giáo sư Việt Văn Nguyễn Thị Ngọc Dung và Cung Thị Lan |
Giáo sư Việt Văn Nguyễn Thị Ngọc Dung và Cung Thị Lan |
Giáo sư Việt Văn Nguyễn Thị Ngọc Dung và Cung Thị Lan |
Giáo sư Việt Văn Nguyễn Thị Ngọc Dung và Cung Thị Lan |
Ngoài ra, tôi còn cảm thấy sung sướng khi nghe
cô khen ngợi những tác phẩm văn chương của mình, nhất là tác phẩm đầu tay về thời
trung học ở thành phố biển Nha Trang. Gần đây, sau hơn 15 năm phát hành tác phẩm
Nha Trang Dấu Chân Kỷ Niệm, cô Ngọc Dung
nói với tôi qua điện thoại rằng “ Cô thấy em và Hiệp hay du lịch và hạnh phúc cô
mừng lắm.” Tôi ngạc nhiên: “Dạ vợ chồng tụi em hồi giờ không có bất hòa hay cãi nhau điều
gì lâu đâu cô!” Giọng Bắc ấm nhẹ của cô
ngập ngừng “Tại cô đọc Nha Trang Dấu Chân Kỷ Niệm nên cô lo! “ Tôi rối rít nói: “Ồ cô lo ảnh phiền về mối tình đầu của
em hả? Khi viết em muốn thành thật tất cả những gì xảy ra với mình mà anh Hiệp không
có tính nhỏ mọn cô à! Hơn nữa thời nhỏ ai cũng từng lãng mạn như vậy, cô đừng
lo nữa nha!” “Vậy thì
cô an tâm!” Âm thanh vui vẻ hòa quyện trong lời nói của cô làm tôi cảm động muốn khóc. Tôi thầm cảm ơn trời cho tôi có cơ hội được gặp lại
cô giáo mà tôi từng âm thầm thương kính đồng thời được cô mến thương như khi còn
nhỏ.
Ngoài
cô Ngọc Dung, tôi cũng được cô Hồ Thị Phương
Lan thương mến. Tôi
chưa bao giờ được cô Hồ Thị Phương Lan giảng dạy nhưng tôi thường nghe “truyền
thuyết” về cô rằng “Trước khi Nữ Trung học
Nha Trang thành lập, các chị nữ sinh trung học ở Nha Trang phải học chung với nam sinh
trong trường nam trung học Võ Tánh nơi có
một cô giáo dạy Anh Văn thường mặc mini jupe tên Hồ Thị Phương Lan. Vì cô Phương
Lan khá tân thời nên hiệu trưởng trường
nam trung học Võ Tánh cảnh cáo và nghiêm
cấm nhưng cuối cùng phải chào thua vì cô
dạy Anh Văn khá giỏi!” Lời đồn này đối với
tôi như một chuyện phiếm với những tình tiết đặc biệt cho nên tôi không hề lưu
tâm, hỏi sâu chi tiết.
Cho
đến ngày tôi giới thiệu tác phẩm Không
Phải Chỉ Là Chuyện Con Cọp trong Hội
Ngộ Võ Tánh Nữ Trung Học Nha Trang 2012
tại Houston Texas, tôi gặp cô Phương Lan.
Hôm
đó, trong lúc tôi đang lúi húi ký sách, một giọng Huế nhẹ nhàng vang bên tai:
“Cho
mình lấy một cuốn sách!”
Tôi quay
lại, nhoẻn miệng cười:
“Dạ,
chị cho em xin tên đi!”
“Phương
Lan.”
“Dạ
chị cho em họ luôn đi!”
“Hồ
Thị Phương Lan”
Tôi
chuẩn bị viết, chợt khựng lại, nhìn sững người trước mặt., nghĩ thầm: “Ui cha!
Chẳng lẽ đây là giáo sư Anh Văn Hồ Thị Phương Lan của trường Võ Tánh Nha Trang
mà tụi bạn mình kể chuyện hôm trước? Chắc là trùng tên chứ làm sao cô trẻ như vầy!”
Như
đọc được ý nghĩ của tôi, cô Phương Lan điềm đạm nói:
“Mình
không phải là học sinh. Trước đây mình dạy
trường Võ Tánh!”
Tôi
nói gần như reo:
“Ôi
cô Hồ Thị Phương Lan! Em nghe tiếng cô từ lâu…nhưng vì em nghe cô dạy Anh Văn
trường Võ Tánh cho mấy anh lớp lâu lắm rồi
nên em nghĩ cô không thể nào trẻ như vầy!” Rồi tôi rối rít phân trần tiếp: “Cô
cho em xin lỗi nhé! Em tưởng cô cỡ mấy chị học trên em vài lớp nên xưng hô
không đúng!”
Cô
Phương Lan cười xuề xòa:
“Không sao! Cung Lan ký cho mình một cuốn sách đi!”
Tôi
im lặng làm theo ý của cô. Lòng vẫn chưa hết ngượng, tự trách cái tật lơ đễnh,
ba chớp ba nháng của mình. Dù sao, tôi nghĩ sự ngượng ngập của mình chỉ trong
phút chốc rồi trở thành một kỷ niệm vui vui trong hội ngộ Võ Tánh Nữ Trung Học Nha Trang 2012 tại
Houston Texas. Vậy mà, khi về lại Hoa Thịnh Đốn, ít lâu sau, tôi nghe một số anh
chị em trong nhóm Hoa Đô, gồm tất cả các anh chị em trong Ban Tổ Chức Hội Ngộ VT+NTH Nha Trang 2011, nhắn tin mời vợ chồng tôi đến thương xá Eden dùng cơm với cô Phương Lan.
Người chủ xướng là anh Nguyễn Mỹ bởi anh Mỹ là học trò cũ của cô. Hòa theo sự háo
hức được gặp cô của nhóm Hoa Đô, tôi rủ anh Hiệp, chồng của tôi đi cùng. Anh Hiệp
cũng là cựu học sinh Võ Tánh, tuy chưa từng học với cô Phương Lan nhưng cũng thích gặp cô do nghe “ truyền thuyết
đặc biệt về cô”. Hôm đó, chúng tôi gồm có vợ chồng anh Mỹ, chị Thúy Anh, Tuyết
Mai, Tuyết Lan, Hoàng Mơ, và Thanh Tùng.Cô Phương Lan rất vui khi thấy chúng tôi
đón tiếp cô hết sức niềm nở.
Những
câu chuyện cởi mở trong bữa cơm thân mật
đầu tiên đã khiến chúng tôi cảm thấy thân thiết và gần gũi cô như đã từng là học
trò cưng của cô.Thực sự, cô cưng chúng tôi như chị gái cưng chiều những đứa em
bé bỏng. Mỗi lần có dịp đến Virginia thăm
con trai, cô thường dành thì giờ gặp
chúng tôi. Cô hẹn chúng tôi đến thương xá Eden,Virginia rồi khao chúng tôi ăn những
món ăn mà chúng tôi ưa thích. Thế là chúng tôi vòi đến quán nem Ninh Hòa để ăn nem nướng, bún cá, mì
Quảng và uống nước mía. Lễ Giáng Sinh cô đích thân tổ chức tiệc cho nhóm Hoa Đô gồm cựu học sinh hai trường
trung học Võ Tánh và Huyền Trân Nha Trang ở vùng Hoa Thịnh Đốn tại chung cư của
con trai cô. Tình thương của cô đối với
chúng tôi khiến chúng tôi ngày càng gần gũi
cô hơn. Mỗi lần có dịp họp mặt, chúng
tôi thường nhắc nhau mời cô đến chung vui cùng. Mỗi lần như thế, cô
không quản ngại đường xá xa xôi bay từ Florida đến vùng Hoa Thịnh Đốn, rồi lấy
tàu điện từ Virginia sang Maryland để họp mặt với chúng tôi. Cô tham gia hầu hết
những sinh hoạt mà chúng tôi trù định như hóa trang, diễn kịch, nói chuyện tếu.
Sự hòa đồng của cô đã xóa ranh giới giữa thầy và trò. Có lúc, chúng tôi quên hẳn
cô là giáo sư của các bậc đàn anh, đàn chị của mình, thi nhau kể truyện tiếu lâm có pha chút mằn mặn rồi cười
ha hả. Đang cười, chúng tôi chợt hết hồn, im lặng đưa mắt nhìn nhau ngầm nói: “Chết rồi! Tụi mình quên là có cô Phương
Lan ngồi ở đây!” Cô Phương Lan không nói gì chỉ cười hiền hậu với vẻ thông cảm.
Dù là thế, cô luôn luôn giữ sự chừng mực và hướng dẫn chúng tôi điều hay lẽ phải
bằng hình ảnh gương mẫu của mình. Cô thường nói “Đủ rồi!” khi thấy chuyện gì vượt
giới hạn như: “Thôi bao nhiêu thức ăn như ri đủ rồi!”, “Đã chụp hình rồi! Mấy tấm hình chung như vậy là đủ
rồi em!”, “Cô đến chơi với các em như vầy
đã đủ, cô phải về để còn lo….” Cô thường có kế hoạch trong việc sử dụng thời gian cho nên
cô luôn giữ sự chừng mực và dung hòa các
viêc làm một cách đúng đắn. Qua những câu chuyện kể của cô, tôi hiểu rằng cô đã
quân bình thời gian của cô cho bản thân, gia đình và xã hội một cách rất hiệu
quả. Cô cân bằng thời giờ chăm sóc thầy,
tiếp đón bạn bè thân thuộc, thực hiện những chuyến thăm con cái ở xa, thăm bạn bè, tiếp đãi người
thân, giúp đỡ bà con họ hàng, và thường xuyên làm công quả cho chùa trong lúc
dành chút thời gian riêng cho mình để
sinh hoạt với học trò hay để chụp hình cảnh đẹp khi du lịch đây đó. Thú vị với cách sống lạc
quan và đầy ý nghĩa của cô, tôi thường hỏi thăm cô về những hoạt động của cô thời
trẻ mỗi khi có cơ hội.Tôi đã ngỡ ngàng khi biết cô du học Mỹ vào năm 1963,
thời gian hiếm có sinh viên Việt Nam được học bổng du học nước ngoài. Với trình độ Anh Văn xuất sắc,
cô đã đạt ngay bằng cử nhân sau bốn năm học chương trình Điều Dưỡng tại Chicago,
Hoa K ỳ. Vừa tốt
nghiệp cử nhân, cô trở về nước ngay và sáng lập trường Điều Dưỡng đầu tiên tại Nha
Trang 1967. Đến năm 1970, cô lập gia đình và chuyển vào Sài Gòn. Tại đây, cô được đề cử làm giám
đốc Điều dưỡng bệnh viện Chợ Rẫy. Với kiến thức sâu rộng về Điều Dưỡng và khả năng
Anh Ngữ, cộng thêm tài điều hành và óc tổ
chức, cô đã giúp bộ Y Tế của miền nam Việt Nam trước năm 1975 một cách hiệu quả. Đồng thời, cô có rất nhiều học trò Anh Văn khá giỏi từ các lớp
Anh Văn mà cô giảng dạy ở các hội Việt Mỹ và trường trung học Võ Tánh Nha Trang. Những
câu chuyện về cô và của cô thường làm tôi thú vị suy nghĩ mãi. Chúng là những
bài học giá trị về
phẩm hạnh mà t ôi luôn
luôn l ưu ý để noi
theo. Đó là thái độ điềm đạm, khiêm tốn,
chân thực và sự phóng khoáng đúng mức.
Tôi
thường lấy ngày 30 tháng 4 năm 1975 làm cái mốc cho sự phân
ly. Trước cảnh thầy c ô
bạn bè mỗi người một nơi và những thay đổi
liên tiếp xảy ra trong thành phố biển quê hương Nha Trang trong thời gian ấy đã làm tôi tuyệt vọng với ý nghĩ là tôi không bao giờ
có thể gặp lại thầy bạn ngày xưa nữa. Tôi đã không ngờ sau mấy chục năm xa
cách, k ỹ thuật liên
mạng toàn cầu đã giúp thầy trò bạn hữu chúng tôi nối kết và liên lạc nhau một cách
dễ dàng. Từ khắp năm châu, ngoài nước lẫn trong nước, thầy trò, bạn hữu, đồng môn
chúng tôi đều có thể dùng Emails, Facebook, Messengers, hay Livestream để thăm hỏi hay
truyền tin tức cho nhau. Nhờ thế ,
chúng tôi được gặp lại những khuôn mặt thân thương từ
những ngày xưa thân ái. Mạng Internet đang thu hẹp thế giới và giúp chúng tôi ngày càng gần
gũi nhau hơn.
Cô Tuất, CL và Tuyết Mai |
Cung Thị Lan và thầy Nguỵ Như Bàng |
Cung Thị Lan và cô Ngân Tổng Giám Thị |
Hội ngộ VT+NTH tại Texas 2005 |
Hội ngộ VT+NTH tại Houston 2005 |
Hội ngộ VT+NTH tại Virginia 2011 |
Khi
nghĩ đến những buổi Hội Ngộ lớn nhỏ của hai trường Võ Tánh và Nữ Trung Học
Nha Trang trong suốt 15 năm, tôi chợt nghĩ đến chữ “hữu duyên”
trong câu thơ “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ!” và biết ơn Mạng Internet đã
tạo điều kiện cho chúng tôi cơ hội gặp lại nhau sau một thời gian dài xa cách. M
ặc dù không phải là tất cả
thầy trò chúng tôi đều c ó thể
gặp nhau ngoài đời trong những
lần Hội Ngộ chính thức của hai trường Võ Tánh và NTH Nha Trang; nhưng qua mạng internet, FaceTime,
Facebook Messengers và Livestream đã giúp chúng tôi có thể nhìn thấy lẫn nhau, trao đổi tâm tư tình cảm với nhau và chia sẻ cho nhau những tin tức quan trọng. Bấy nhiêu đó cũng đủ ấm áp tình
thầy trò và tình bằng hữu. Bấy nhiêu đó cũng đủ để chúng tôi hiểu nhau, thông cảm
nhau và yêu thương nhau nhiều hơn.
Cung Thị Lan
Ngày 16 tháng 4,2019